Mao Trạch Đông – một lãnh tụ của nhân dân Trung Hoa, người được đánh giá có ảnh hưởng và làm thay đổi đất nước tỷ dân một cách sâu rộng nhất. Trung Quốc dưới thời kỳ lãnh đạo của Mao Trạch Đông đã bùng nổ dân số từ 500 triệu lên tới 900 triệu dân. Cũng là thời kỳ mà những chế độ, chính sách của con người này bị lên án vì cướp đi quá nhiều sinh mạng.
Xét trên khía cạnh huyền học, lá số của Mao Trạch Đông hẳn được phân tích rất nhiều bằng Tử Vi, Bát Tự,… và hầu hết đều phân tích tới khía cạnh các mốc thời gian liên quan đến các thành tựu chính trị, quân sự của ông cũng như bối cảnh lịch sử của Trung Hoa thời bấy giờ. Tuy nhiên, trong bài viết này, tác giả muốn khai thác một khía cạnh khác, không liên quan tới những vấn đề trên. Đó là vấn đề tình cảm, hôn nhân và gia đình của Mao Trạch Đông dưới góc nhìn của Khâm Thiên Tứ Hóa – Hà Lạc Bắc Phái. Bằng những thủ pháp, kỹ thuật khai thác Dụng Thần, xác định giao cảm hay khí trường trong lá số của Mao Trạch Đông, hy vọng bạn đọc sẽ có thêm cái nhìn mới và thú vị về con người này.
Đầu tiên, Mao Trạch Đông sinh năm 1893 – Quý Tỵ. Lai nhân cung của đương số tại cung vị Điền Trạch, trục Tử Điền, cũng là trục tọa thủ của nguyên thần vị. Bản ý vấn đề này nói lên, con người của đương số coi trọng Điền Trạch và Tử Tức. Điền Trạch ở đây, ngoài ý nghĩa gia đình, điền sản còn mang một hàm nghĩa rộng hơn, đó là đất đai, là tài sản, là lãnh thổ, là quốc gia. Tử Tức ở đây, có thể hiểu về hai vấn đề, đó là tình cảm, tình dục và con cái. Quả thực, Mao Trạch Đông là một người có đời sống tình dục rất phong phú, và ông cũng là một người cha vô cùng yêu thương con cái của mình. Yêu thương nhưng không yêu chiều. Đó cũng là lý do vì sao Mệnh cung phi kỵ về Tử nữ cung là vậy. Cái gọi là Kỵ ở đây, với góc nhìn của Bắc Phái chưa chắc đã là xấu. Xấu hay tốt, còn phải dựa vào tổng thể mệnh bàn, các cung vị có phá tượng, phản bối, hay được xuyến liên với nhau thế nào, thì mới có thể định hình được sự vật, sự việc. Ngoài ra, do cung Tử nữ có tượng tự hóa Quyền, nên cách đối xử với con cái của Mao Trạch Đông là vô cùng nghiêm khắc, cũng như ông luôn sẵn sàng trao quyền lực, cơ hội cho con cái mình trong cuộc chiến tranh với Quốc Dân Đảng.
Quay trở lại lá số của Mao Trạch Đông. Chắc hẳn với đa số mọi người, thì Dụng Thần Tử Vi là một khái niệm khá xa lạ và mơ hồ. Nhưng với Khâm Thiên Tứ Hóa – Hà Lạc Bắc Phái, thì Dụng Thần là một yếu tố tiên quyết và then chốt để xác định vận hạn, khí số của một mệnh bàn.
Dụng thần, độc môn tâm pháp của Hà Lạc Bắc Phái.
Khâm Thiên Tứ Hoá, Hà Lạc Bắc Phái coi dụng thần chính là nguồn khí, là sinh mệnh, điểm cốt tử, hay yếu huyệt của mỗi con người. Dụng thần, chính là nét tính cách sâu thẳm nhất trong con người bạn. Dù bạn ở đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, khi mỗi sự vật sự việc xảy ra, Dụng Thần sẽ xuất hiện đầu tiên, trong suy nghĩ của bạn.
Dụng thần trong Tử Vi, chính là xác định, là tìm đến tầng sâu thẳm nhất trong suy nghĩ, hành vi. Từ đó tường minh, định lập được vận hạn cuộc đời con người.
Nắm được Dụng Thần của một người, chính là nắm được số phận của họ.
Dụng thần của lá số Mao Trạch Đông là Tham Lang tinh, được định vị tại Mệnh cung. Vì vậy ông là người hiếu động, giỏi xã giao tiệc nhậu, một đời hay kết giao bạn bè, khá lạc quan, đam mê dục vọng vật chất, thích ăn uống, mỹ nữ, đào hoa. Coi bản thân là trung tâm, là người không câu nệ tiểu tiết, tình cảm thăng trầm nhiều biến động lớn. Khẩu tài lưu loát, dễ thổi phồng, chủ đề bàn luận phong phú. Trong cuộc sống không chịu cảnh bình thường, không vừa lòng với hiện trạng, luôn hi vọng có sự đột phá trong công việc, sự nghiệp. Do Tham Lang tinh là ngôi sao chủ về đào hoa bậc nhất trong Tử Vi, nên Tham Lang Hóa Kỵ càng cần phải chú ý đào hoa, và chuyện về đào hoa cũng là chuyện sẽ gây ra nhiều phiền phức cho những người có dụng thần là Tham Lang Hóa Kỵ.
Xét về tính cách, do có Hóa Kỵ đi cùng với dụng thần, nên về bản chất, Mao sẽ là một con người khó tính, khó gần và hướng nội, khác với vẻ ngoài vui vẻ, thỏa mái, cởi mở mà Thiên Di có Liêm Trinh tự Hóa Lộc mang lại.
Nhân duyên là gì?
Nhân chính là nguyên nhân, là nguồn gốc tạo ra mọi sự vật, hiện tượng và sự việc trên thế giới này. Duyên được hiểu là một sợi dây vô hình ràng buộc giữa người với người.
Hiểu một cách đơn giản, nhân duyên chính là cái duyên mà mỗi người nhận được, là lý do để chúng ta có cơ hội gặp gỡ, kết duyên cùng nhau. Nếu không có nhân duyên trên cuộc đời này, con người sẽ không thể gặp nhau để tìm ra người bạn hợp với mình, tạo dựng quan hệ để trở thành bạn thân, vợ chồng hay tri kỷ của nhau.
Khâm Thiên Tứ Hóa, Hà Lạc Bắc Phái có một thủ pháp bí truyền để có thể xác định thời điểm mỗi một con người, có thể có cơ hội gặp được nhân duyên của bản thân, đó là khi có giao cảm của trường khí giữa nam và nữ. Nhưng, xin nhớ rằng, đó là nhân duyên, là cơ hội. Còn việc có thể tận dụng, nắm bắt và phát triển được cơ hội đó hay không. Còn phải tùy thuộc vào quyết tâm, rung động, mong muốn và đồng thuận từ cả hai phía.
Do sự phối đôi của các nam nữ tinh, khi thập can hóa khí, thông thường có thể thấy rằng mỗi thiên can khi có tượng Lộc Quyền Khoa Kỵ đều có hai cặp nam nữ nhân tinh. Khi tại thời không, các tinh diệu có thể gặp nhau giao cảm, ở đó sẽ phát sinh sự giao thoa của hai dòng khí, sự hòa hợp, kết duyên của nam và nữ. Vì vậy tại thời điểm đó, không gian đó, nhân duyên tình cảm nam nữ dễ xảy ra, chuyện thành gia lập thất, tình ái sắc dục mới khởi nguồn. Tuy nhiên, với sự đặc biệt của can Bính và can Quý, ta có thể nhận ra sự thiên lệch của nam nữ tinh trong hai thiên can này. Với can Bính, đó là ba nam tinh một nữ tinh, còn can Quý thì lại ba nữ tinh một nam tinh. Sự thiên lệch này vô tình đã làm cho một bên bị cô đơn gối chiếc, một bên thì lại quá xuân tình đào hoa. Như trong lá số của Mao Trạch Đông, vì tọa can Quý nên trong cuộc đời của ông rất dễ có giao cảm với các nữ tinh khác. Đó chính là lý do có vô vàn giai thoại kể về chuyện hậu phòng phong phú của ông.
Cụ thể, ta có thấy tại các cung vị thuộc trục Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tỵ Hợi, Sửu Mùi, ông đều có cơ hội giao cảm với nữ nhân. Duy nhất chỉ tại trục Tí Ngọ là không có giao cảm với nữ nhân.
Tại trục Dần Thân, ta có thể thấy sự xuất hiện của hai dòng năng lượng giữa hóa Kỵ năm sinh và tự hóa ly tâm Lộc. Hóa Kỵ năm sinh biểu trưng cho năng lượng của Dụng Thần lá số, cũng chính là Dụng Thần của Mao Trạch Đông – Tham Lang Kỵ. Còn tự hóa ly tâm Lộc, chính là dòng khí mang lượng của hóa Lộc năm sinh, đại biểu cho dụng thần Phá Quân Lộc của một người nữ nhân nào đó, người sẽ cùng Mao Trạch Đông gặp gỡ và tiếp xúc, tạo nên đoạn trường nhân duyên trong cuộc đời của Mao, tại chính trục Dần Thân trên lá số. Cũng như vậy, tại trục Sửu Mùi, dụng thần Tham Lang Kỵ của Mao sẽ lại có cơ hội gặp gỡ với Thái Âm Khoa, tạo nên một đoạn nhân duyên khác của vị cố chủ tịch. Ngoài ra, tại các trục Mão Dậu, Thìn Tuất, Tỵ Hợi trên lá số cũng đều có sự giao cảm của nam nữ nhân tinh, sự kết hợp của dòng khí Tham Lang Kỵ và các dòng khí của hai tứ hóa năm sinh Lộc Khoa.
Không kể những mối tình không chính thức, có thể liệt kê Mao Trạch Đông có bốn người vợ chính thức đó là:
La Nhất Tú: kết hôn năm 1907 – 15 tuổi
Dương Khai Tuệ: kết hôn năm 1921 – 29 tuổi
Hạ Tử Trân: kết hôn 1928 – 36 tuổi
Giang Thanh: kết hôn từ năm 1938 – 46 tuôi
Có thể thấy, tại các thời điểm 15, 29, 36, 46 – Bàn cục lá số đều có tượng giao cảm của Dụng Thần Tham Lang Kỵ và các nữ tinh trên mệnh bàn, hơn thế nữa, đều nằm tại các cung vị nội cục, vì vậy chuyện thành gia lập thất với các nữ nhân này là việc không thể không có. Ngoài ra, khi xác định được thời không xảy ra sự việc về giao cảm, Khâm Thiên Tứ Hóa – Hà Lạc Bắc Phái cũng có thể xác định được cả dụng thần của đối tượng giao cảm với đương số. Hay nói cách khác, tại mỗi thời điểm, mỗi không gian khác nhau, con người ta lại có xu thế thích thú, yêu mến một kiểu người có tính cách khác nhau. Đó cũng là điều vô cùng bình thường mà ta có thể gặp trong đời sống xã hội với bất kỳ ai. Lá số thì bất biến, nhưng tính cách con người sẽ biến đổi khi thời không biến đổi. Cái hay, cái độc đáo của Khâm Thiên Tứ Hóa – Hà Lạc Bắc Phái chính là ở điểm này. Dùng khí định cung, dùng cung chế khí. Tự hóa, phi cung cùng nhau đan xen, thiên biến vạn hóa, thể dụng lập cực, duyên khởi duyên diệt, truy định cát hung.
Câu hỏi đặt ra là, nếu xác định được thời điểm xảy ra giao cảm, xảy ra nhân duyên gặp gỡ. Vậy có thể xác định được thời điểm kết thúc, thời điểm chia ly? Câu trả lời là có, và đây cũng chính là điểm độc đáo của Bắc Phái Hà Lạc. Khí tụ thì duyên hợp, khí tan thì duyên tán. Tìm được duyên khởi, ắt xác định được duyên diệt. Đó chính là thủ pháp bình hành vật tướng, thời không tự hóa trong Khâm Thiên Tứ Hóa – Hà Lạc Bắc Phái.
Với người vợ thứ hai Dương Khai Tuệ, năm 1930 cuộc hôn nhân chấm dứt, cũng là năm Mao Trạch Đông 38 tuổi. Duyên khởi của hai người tại trục Sửu Mùi, do vậy, vật tướng chính ở Tử Vi. Khi phu thê lưu niên đi vào trục Thìn Tuất thì ắt xảy ra chia ly. Không những vậy, do Tử Vi tự hóa Quyền, nên người rời xa cuộc hôn nhân này chính là Dương Khai Tuệ. Đáng tiếc thay, nguyên nhân không phải do tan vỡ, mà do bị xử tử. Với những tư liệu còn lưu lại. Dương Khai Tuệ được ví như cành dương liễu trung trinh, một người giàu tình cảm, tính cách nhẹ nhàng thanh cao mà vô cùng tự trọng, điều này thể hiện hoàn toàn phù hợp với dụng thần Thái Âm hóa khoa của bà, trong lá số của Mao Trạch Đông.
Có thể thấy rằng, dưới góc nhìn của Khâm Thiên Tứ Hóa – Hà Lạc Bắc Phái, ta sẽ hình dung được các sự vật, sự việc diễn ra một cách liên hoàn, nối tiếp nhau. Duyên khởi rồi diệt, việc tụ rồi tan. Tuy nhiên, nếu không có sự vật xuất hiện, hay không xác định được duyên khởi, thì không tài nào tìm được thời gian sự việc kết thúc, vì duyên diệt chính là vật tướng của nó.
Khâm Thiên Tứ Hóa – Hà Lạc Bắc Phái trọng lý lẽ pháp tắc, nhưng cũng có thể nhìn ra những lý niệm trong đó đều rất gần gũi, rất đời thường, từ góc nhìn nhân sinh quan mà diễn hóa ra lý luận. Vì bản chất mọi sự vật hiện tượng đều không thể xa rời thực tế.