VÍ DỤ LUẬN MỆNH BẰNG HÀ LẠC BẮC PHÁI

VÍ DỤ THỨ NHẤT: QUÁ TRÌNH CHUYỂN TRƯỜNG CỦA NGƯỜI CON CỦA HỌC VIÊN (KỸ THUẬT LUẬN BẰNG HỆ THỐNG TỰ HÓA)

Cũng giống như bao bậc cha mẹ trong thiên hạ, mỗi khi hè sang ở Đài Loan, khi hoa phượng nở rộ là
lúc học trò cất vang khúc hát tạm biệt. Tuy nhiên khi kết thúc một kỳ học này cũng là bắt đầu một kỳ học khác. Cho nên mùa hoa phượng nở cũng là lúc các trường ở Đài Loan tổ chức thi tuyển. Khoảng một buổi chiều chủ nhật cuối tháng tám năm Quý Tị, ta vừa mới kết thúc khóa học bốn tiếng đồng hồ, ta đã thấy một học viên chạy quay trở lại tựa như muốn nói điều gì đó. Tựa như muốn tặng hoa thì phải tiến lên phía trước, ta liền nói: “Đến đây, trò còn điều gì muốn hỏi?” “Thưa thầy, con muốn hỏi kết quả học tập của con trai con có thay đổi gì không ạ? Năm ngoái cháu nó trúng tuyển vào trường công lập rồi!”. Hỏi rõ canh giờ, lập mệnh bàn, ta liền nói hai câu:
– Con trai con không thích đọc sách, không hứng thú học bài.
– Năm nay có thể chuyển học trường khác. Con có nghe con trai con nó nói đến chuyện muốn chuyển trường hoặc bỏ học không?
“Thưa thầy, con muốn mời người xem giúp cũng là bởi nó muốn chuyển trường.”
Chuyển trường không đơn thuần chỉ là chuyển không gian học bài nơi này sang không gian nơi khác.
Chuyển trường, thông thường cũng phải đến khoảng giữa tháng tám mới quyết định. Tất cả tượng trong bàn cục, ta đương nhiên chỉ tứ hóa tượng là Lộc Quyền Khoa Kị, nói đơn giản là vì động tĩnh giao nhau sản sinh tụ tán cát hung. Tứ hóa năm sinh là dụng thần của Bắc Phái Đẩu số, mà tự hóa với phi cung đều là dụng thần của tượng tứ hóa năm sinh. Dụng với Thể có sự trái ngược nhưng cũng có tương hỗ ý nghĩa. Thể là tĩnh là Âm, là vắng lặng bất động của tượng năm sinh; Dụng là động là Dương, là tự hóa hoặc phi hóa nhiễu loạn hoặc cải biến năm sinh Thể, nên mới nói “cát hung hối hận đều ở động”. Đây là thực nghĩa của dụng thần trong Bắc Phái. Tất cả tượng trong mệnh bàn, vốn xuất phát từ nhân tâm mà biến đổi cũng từ nhân tâm, nên mới nói “trong tâm có số”. Cho nên khi mở ra một bàn cục thì bàn cục ấy không phải là nó chỉ hướng đi của mệnh chủ, mà là ở bên trong thâm tâm của mệnh chủ mới quyết định bàn cục. Bởi vậy tuy rằng Đẩu Số có hiện tượng trùng lặp bàn cục, nhưng ở góc độ nhân tâm thì chưa bao giờ có chuyện cùng bàn cùng tượng tất cả. Thông thường, người mới học rất dễ bị hiện tượng trùng lặp bàn cục này kéo đi, càng đi càng xa, muốn làm rõ thế cuộc mà chẳng biết thế nào, kỳ thực đây là đạo lý giản đơn vô cùng. Bàn cục này tuy giản lược nhưng trong đó hàm chứa cũng không ít, giống như “đạo lý đúng đắn vô cùng giản đơn”. Bản mệnh Quan Lộc cung, năm sinh Thiên Đồng Lộc, ở đây có tượng tất có vật của nó. Lộc tùy Kị tẩu, năm sinh Liêm Trinh Kị ở Phụ Mẫu cung, cũng là cung Mệnh đại hạn thứ hai, đại hạn thứ hai là đại hạn đọc sách là vận học tập bài vở. Nhưng mà Kị ở Phụ Mẫu – là học tập hậu thiên vị, biểu thị làm nhiều hưởng ít, học nhiều mà thành tích không cao.

Phùng Kị khán Lộc, học trường công. Thiên Đồng tại Thìn vị, bởi vì Thiên Đồng năm sinh Lộc tại lục nội cung Bản mệnh Quan Lộc; trùng điệp Điền Trạch đại hạn, Điền Trạch là không gian, nếu nói về học tập thì Điền Trạch có thể nói đó như trường học. Khi đại hạn Điền Trạch trùng điệp Quan Lộc bản mệnh, mà cung Quan Lộc là nội cục, nghĩa rộng là trường học nhà nước, cho nên năm Thìn thi đỗ vào trường công lập.
Nếu như Thiên Đồng Lộc là trường công, phùng Lộc lại quay về khán Kị là Liêm Trinh, Kị là thực làm, thân lực thân làm, đây là thuộc về phương diện kỹ năng chuyên môn, mà Liêm Trinh đinh hỏa có liên quan cơ điện, vì thế đây thuộc về môn hệ ngành kỹ thuật. Năm Quý Tị lưu niên Mệnh trùng điệp Quan Lộc đại hạn, ở đây Lộc đang có biến đổi. Đầu tiên là đối cung hóa hướng tâm Vũ Khúc Lộc nhập, hơn nữa bản cung Phá Quân lực ly tâm Lộc xuất, đây là “cùng cung khác hướng”. Cùng trong một cung, trước hướng tâm sau ly tâm, Lộc không cùng phương hướng tính chất xuất hiện một nhập một xuất, chủ biến đổi thay thế. Tượng chủ trước được sau mất. Cùng một cung ở đây là đại hạn Quan Lộc chủ sự nghiệp hoặc bài vở học tập, chẳng lẽ không phải bài vở học tập có thay đổi? Hơn nữa ly tâm lực Lộc “pháp tượng” quay về tượng năm sinh là Thiên Đồng Lộc tại Quan Lộc bản mệnh. Quan Lộc đại hạn đối Quan Lộc bản mệnh, đây là giao cảm của cung vị. Đương nhiên là đàm
luận đến chuyện quan lộc chuyện bài vở học tập. Đến đây, đại hạn Quan Lộc giao cảm Quan Lộc bản mệnh, lực ly tâm Phá Quân Lộc, giao cảm Thiên Đồng Lộc năm sinh. Chỉ có điều Phá Quân ly tâm Lộc này chủ phá hao tổn cũng ly tán Thiên Đồng năm sinh Lộc. Hoặc có thể nói Phá Quân ly tâm Thiên Đồng, hoặc nói Quý thiên can rời bỏ Bính thiên can. Bính ở nơi nào? Ở Thân vị, lấy Quý Tị lưu niên khán Thân, Thân vị là lưu niên Điền Trạch của Quý Tị lưu niên và là đại hạn Tật Ách. Đại hạn Tật Ách chính là Điền Trạch vị của đại hạn Quan Lộc, luận là nơi đọc sách, là chỗ học tập. Lưu Điền của Thân đối lưu Mệnh của Tị, Tị Thân chính là nói đến sự thay đổi không gian học bài. Có một số tượng đều có tượng ý chỉ hướng Quý Tị có chuyển trường hoặc thôi học, nhưng mà nếu nói chuyển trường còn có mấy điểm:
• Năm sinh Thiên Đồng Lộc là trường công, nhưng ly tâm lực một ly xuất là tự hóa tượng, Thiên Đồng
công lập không được. Lại đới động xuất tự hóa, chuyển trường tượng càng chuyển càng kém. Thực sự thì một tháng sau, đến tháng chín khai giảng, đã chuyển tới học ở trường kỹ thuật tư. Cái này gọi là ngày càng lụn bại.
• Chuyển tới trường học tư ở đâu? Đầu tiên là Phá Quân ly tâm Lộc bỏ năm sinh Thiên Đồng, lại bởi
Quý Tị động xuất Phá Quân ly tâm Lộc, giao cảm Thiên Đồng. Mà Phá Quân rời Thiên Đồng này cũng chẳng qua là sát vách cung vị, cho nên chuyển đến trường học tư nhân, tuy là rời Thiên Đồng Lộc chuyển sang học trường tư nhưng nó khá gần, ước chừng khoảng hai ba kilomet.
• Phá Quân tọa Tị vị, nếu lấy thành phố Đài Bắc mà nói, vẫn là thiên hướng Đông Nam. Quả nhiên,
trường mới chuyển sang học đúng là ở phía Đông Nam.

VÍ DỤ THỨ HAI: THẢO LUẬN VỀ TRƯỜNG HỢP ĐẦU TƯ NHÀ MÁY LỚN BẰNG CÁCH VAY VỐN TỪ THỊ TRƯỜNG (KỸ THUẬT LUẬN BẰNG HỆ THỐNG TỰ HÓA)

Nam mệnh sinh năm Tân Sửu từng là giám sát cấp cao của một nhà máy đúc thủy tinh cao cấp. Nay
dùng “tá bàn luận sự” để luận về chuyện đầu tư của nhà máy. Lai nhân Phụ Mẫu cung, Thái Dương Quyền nhập Tài Bạch. Mượn mệnh bàn luận chuyện, cung Phụ Mẫu là công ty niêm yết lớn, bởi vì Phụ Mẫu là tài vị của đại chúng Nô Bộc cung, cũng là Quan Lộc vị của Tử Nữ, cho nên cung Phụ Mẫu là công ty niêm yết đưa ra thị trường của đại chúng. Thái Dương Quyền ở cung Tài Bạch, Thái Dương chủ điện tử điện quang, Quyền chủ chuyên môn kỹ năng chuyên ngành độc quyền. Quyền ở Tài Bạch biểu thị mưu cầu lợi nhuận doanh thu.
Phùng Quyền khán Khoa ở Nô Bộc, Khoa ở ngoại cục, tính chất thuộc về công ty thiết kế lớn. Cũng lấy Phụ Mẫu cung + Thái Dương năm sinh Quyền, loại hóa thành công ty nhà máy lớn. Cung Tài Bạch năm sinh Thái Dương Quyền tái chuyển Thái Âm Quyền nhập Phúc Đức đối cung. Đây là tượng nhà máy chuyển hướng đầu tư. Thái Dương năm sinh Quyền chuyển Thái Âm hướng tâm Quyền xuất ở Phúc Đức, mà Phúc Đức chủ về sản phẩm tiêu dùng chính. Thái Âm hướng tâm Quyền pháp tượng vẫn là thuộc về điện tử quang điện. Nếu Quyền hướng tâm xuất là hiện tượng đầu tư, thì can Mậu chuyển Hữu Bật bản đối một đường chính là thời điểm đầu tư nhà máy. Hữu Bật Khoa nhập, hơn nữa Mùi cung có Tử Vi hướng tâm Khoa xuất, trực tiếp vào năm Sửu 2009, thực tế là năm 2009 nhà máy đã đầu tư vào các sản phẩm điện tử quang điện.

Thái Âm hướng tâm Quyền nhập Phúc Đức thuộc về trực tiếp đầu tư nhà xưởng. Thái Âm hướng tâm Quyền xuyến liên Tham Lang ở Điền Trạch, tượng có thực chất. Chỉ có điều Tham Lang Quyền nhập lại ly tâm Kị xuất, nên việc đầu tư này trước năm 2013 luôn trong tình trạng bị lỗ. Điền Trạch hướng tâm Quyền nhập + ly tâm Kị không cùng tổ tượng nên lỗ càng lớn hơn, đây cũng là tượng thay đổi của Quyền Kị. Cung Tị ly tâm Kị xuất tái chuyển Cự Môn Quyền nhập gặp năm sinh Lộc ở Tài Bạch đại hạn thứ năm, cuối năm 2014 nhà máy điện quang điện được mua lại để chuyển đổi cổ phiếu.

VÍ DỤ THỨ BA: THỜI ĐIỂM NỮ DIỄN VIÊN TÁI XUẤT (KỸ THUẬT LUẬN BẰNG HỆ THỐNG TỰ HÓA)

Bàn về một nữ diễn viên có thân hình đáng tự hào và gương mặt đẹp lộng lẫy, khuynh đảo cả Trung
Quốc lẫn Đài Loan, đã gây kinh ngạc một thời với hình tượng thanh thuần ngọc nữ. Trong thời kỳ diễn xuất đỉnh cao, chưa bao giờ dính lùm xùm scandal, nhưng khoảng thời gian từ năm 2006 đến 2007 bị nghi dính vào nghi án ma túy. Từ năm 2007 sự nghiệp diễn xuất đình trệ không có đột phá. Thân hình thời gian sau đó trở nên phì mập, nhưng nữ diễn viên trong lúc mọi người còn đang sửng sốt bóng liễu hoa tươi, năm 2014 tuyên bố tái xuất. Và ngay lập tức có được một hợp đồng diễn xuất thông qua một công ty nghệ thuật biểu diễn. Bảy năm thăng trầm này chính là quãng thời gian thanh xuân của cuộc đời cô. Dịch kinh có nói “thất nhật lai phục”, nên thời gian bảy năm này vừa đủ cho thấy được tuần hoàn vãng phục của bàn cục Đẩu số. Thời gian tái xuất, khoảng mười tám tháng trước, lúc đó ta mới gặp cô ấy. “Chào lão sư”. “Chào cô, khí sắc của cô xem ra không tệ lắm, ngồi đi”. Nữ diễn viên mặt trang điểm rất nhẹ, chỉ thoa một lớp phấn mỏng. Cô ấy mặc một chiếc áo sơ mi ngắn tay rộng rãi phối với quần jean bó ống phía dưới trông rất tự nhiên, chỉ như thế này, ta vẫn có thể cảm nhận được khí chất nghệ sĩ độc đáo.

Một người bạn đi cùng cô ấy đã lên tiếng: “Thưa thầy, cô ấy muốn biết liệu cô ấy có thể trở lại sự nghiệp diễn xuất của mình hay không?” Sau đó, ta dựa vào thời gian sinh đã thông báo trước đó, lập mở bàn cục mệnh bàn, chuyện hỏi có thể tái xuất hay không thì quan trọng nhất là nhìn bàn, chứ không phải là nhìn trước xem bao giờ thì tái xuất. Trái lại cần phải lý giải những nguyên nhân khiến cho sự nghiệp diễn xuất mấy năm này không tiến triển trước. Thế là mở bàn, nhìn bàn, tất cả lấy bàn cục nói chuyện. Mệnh bàn vừa mở, ta trầm mặc nửa phút, ta liền nói bảy năm vận suy này thời không nó còn chưa có hết. Bản mệnh Mệnh cung có Liêm Trinh năm sinh Kị với Văn Xương năm sinh Khoa, là quan hệ song song của song tượng năm sinh Khoa Kị đồng cung.
• Tác động quan hệ song song của song tượng Khoa Kị lớn, Liêm Trinh Văn Xương một nam một nữ cấu thành Âm Dương đối, dụng thần trực tiếp lấy tổ Khoa Kị.
• Nữ mệnh lấy nữ tinh, Liêm Trinh năm sinh Kị, khôn lanh thông minh, có thể dùng cái học được, nhưng Kị thì không phải chính đạo.
• Lai nhân cung Quan Lộc, hóa nhập Liêm Trinh Kị ở Mệnh, nặng về sự nghiệp, cũng tất có công việc cho mình. Liêm Trinh Kị nếu nói về công tác sự nghiệp thì song tượng Khoa Kị vật tướng của nó nằm ở chỗ Khoa, mà Văn Xương năm sinh Khoa, chủ về nghệ thuật biểu diễn trang điểm làm đẹp, cho nên cũng thích hợp phát triển trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn. Liêm Trinh Kị đến từ cung Quan Lộc, mà Liêm Trinh là tù tinh, hóa Kị có nhiều chuyện quan phi. Đinh thuộc hỏa nên có thiên hướng không chính quy. Từ lưu niên 32 tuổi trong đại hạn thứ tư thì bắt đầu, tức năm 2007, là lúc sự nghiệp chuyển từ thịnh sang suy.
• Dụng thần đã là tổ Khoa Kị ở Mệnh cung, nhưng ở đại hạn thứ tư cung Quan Lộc đại hạn lại có ly tâm Thái Âm Khoa.
• Năm sinh Khoa Kị song tượng nếu ở Mệnh cung, là mệnh chủ lục nội cung, cũng có thể được coi là có Khoa Kị song tượng. Nhưng cung Quan Lộc đại hạn lại có ly tâm Khoa trước, rời bỏ dụng thần Mệnh cung. Cung Quan Lộc đại hạn vốn là chỉ sự nghiệp trong đại hạn, nay có Thái Âm ly tâm Khoa ly tán năm sinh Văn Xương Khoa. Khoa chủ sự nghiệp biểu diễn, Khoa cũng chủ nhân duyên, tức ở đây không có nhân khí, không có sự nghiệp biểu diễn.
• Dụng thần gốc là Khoa Kị tổ ở Mệnh cung. Khi bước vào đại hạn thứ tư, đại hạn Quan Lộc cung trước ly tâm Khoa một trụ, tức trong hành vận đại hạn thứ tư giai đoạn này rời bỏ dụng thần. Ly tâm Thái Âm Khoa, là chỉ đối cung, thời gian là năm Hợi 2007 bắt đầu, là giai đoạn sự nghiệp biểu diễn giữa đường gãy cánh tiêu tán vô lực. Không có thời gian không gian của song tượng Khoa Kị, chính là lúc vận bắt đầu suy, kéo dài bảy năm bởi: Ly tâm Khoa Kị song tượng, tiêu tán dụng thần song tượng năm sinh Khoa Kị. Song tượng tự hóa nhất định cần có cân bằng với song tượng năm sinh.
Nếu song tượng Khoa Kị ở Mệnh cung, thì ly tâm Khoa cũng cần phải loại tụ tượng của Kị, mới có thể cân bằng. Ly tâm Thái Âm Khoa, là chỉ đối cung năm 2007 bắt đầu vận suy, thì chỗ Thái Âm ly tâm Khoa chuyển phi Tham Lang Kị nhập Ngọ vị, cân bằng song tượng Khoa Kị. Cho nên thời gian không gian vận suy là từ Hợi vị năm 2007, khi hành vận chuyển đến Ngọ vị năm 2014, cũng là sau khi tiến vào vị trí lưu nguyệt của lưu niên 2014 ở chỗ Tham Lang, nói đơn giản hơn thì vận suy bắt đầu từ 2007 đến tháng ba âm lịch năm 2014. Bảy năm vận suy!
Sau khi qua tháng ba âm lịch năm 2014 mới có thể tái xuất. Khi khí cơ của trời đất chuyển hoán thì nó cũng sẽ ảnh hưởng đến hướng đi của mệnh vận. Nếu như khí cơ chuyển hoán thuộc về năng lượng của mặt trái, thì trong lúc năng lượng mặt trái ấy tiên tiêu tán xong hết cũng còn có trong cái không tái sinh cái có, tự hóa chính là ở trong cái không cái có ấy tuần hoàn qua lại.
Dụng thần Liêm Trinh Văn Xương Khoa Kị song tượng, đã bị Thái Âm ly tâm Khoa ảnh hưởng, mới dẫn đến liên tục bảy năm vận suy kém liền. Nhưng khi Thái Âm Khoa chuyển Tham Lang Kị thì Tham Lang rơi vào vị trí năm 2014 là lúc tái xuất.
Bởi [chỗ Thái Âm ly tâm Khoa + chuyển Tham Lang Kị] đã hình thành thời gian không gian hoàn chỉnh, trải qua bảy năm năng lượng mặt trái kia coi như đã không còn.
Do đó lúc mà Tham Lang Kị tiến nhập năm 2014 chính là thời gian không gian để tái xuất.
Tiếp tục từng tầng bàn cục nhìn xuống, lại từ chỗ cung Mệnh lưu niên nơi Tham Lang nhìn lên, thì nguyệt lệnh tháng ba âm lịch chính là lúc thích hợp. Bởi vậy ta mới phán đoán sau khi qua tháng ba âm năm 2014 mới có thể tái xuất.
Kết quả, nữ diễn viên đã tuyên bố sẽ trở lại nghiệp diễn vào tháng ba âm lịch năm 2014. Trước đó, năm 2012 nữ diễn viên tìm ta luận mệnh bàn nhưng khi ấy chỉ mới có dự tính cuối năm sẽ tái xuất, đây là mong đợi có tính chất chủ quan của cô ấy. Nhưng chủ quan chưa bao giờ là đáp án cuối cùng. Bởi vì bàn cục chuyển hoán, nó cũng phải di chuyển phù hợp với tình hình sự vận hành của bản thân bàn cục trong Bắc Phái Đẩu số.

Mệnh lệ : Ở nhà mở hiệu thuốc Tây, buôn bán cũng không tệ lắm, kiếm không ít tiền, giao du rộng, tính tình cũng tương đối cởi mở nhiệt tình, cho nên bằng hữu nhiều người đến mong muốn đứng ra bảo đảm hộ hoặc vay tiền hộ, hầu như mọi người đến nhờ đều không chối từ. Kết quả là bằng hữu vay tiền không trả khiến cho mình là người bảo đảm bị liên lụy, năm 30 tuổi cuối cùng chống đỡ không nổi tuyên bố đóng cửa.

Vị tiên sinh này có mở một cửa hàng thuốc tây ở nhà, buôn bán cũng không tệ lắm, cũng thu được khoản lợi nhuận kha khá, đương nhiên sẽ có liên quan đến cung Tài Bạch, tọa cung có Lộc Tồn lại hội với Thiên Cơ Lộc ở cung Phúc Đức, hình thành cách cục “minh Lộc ám Lộc hợp”. Sách nói “minh Lộc ám Lộc, vị chí công khanh”, “minh Lộc ám Lộc, cẩm thượng thiêm hoa”, cái trước là có thể nắm đại quyền, có thể là quan viên trọng yếu của quốc gia, cái sau là hàm ý có thể thăng quan tiến chức. Bởi vậy mệnh bàn cung Tài Bạch có dạng bàn cục này, đương nhiên năng lực kiếm tiền cũng cao hơn người khác, vì thế có thể kiếm được nhiều.
Cung Tài Bạch độc tọa Lộc Tồn, viên tinh này “nếu độc thủ mệnh mà không có cát hóa, là keo kiệt bủn xỉn”, rơi vào cung Tài Bạch chủ người này có khuynh hướng này, mua đồ tính toán chi li thiệt hơn rất tỉ mỉ, rất giỏi trong mưu cầu lợi về phía mình. Thế nhưng lại có viên Địa Kiếp xâm nhập rất bất lợi cho tiền tài, có người nói đó là “kiếp tài”, bởi vì “đại để hai sao này chẳng hề thích gặp nhau, định chủ phá tài, nhị hạn gặp tất hung”, điểm ra đặc tính này rất rõ ràng, nên sướng khổ gì thì quá tính toán chi li tiền bạc sớm muộn gì cũng bị viên tinh “Địa Kiếp” này phá. Cung Tài Bạch có tổ hợp tinh này là bất lợi, là tổ hợp trước có sau lại phá hỏng, thực sự là người tính không bằng trời tính.
Bất quá Mệnh cung tọa Thái Dương, Thái Âm là “Nhật Nguyệt thủ mệnh, không bằng chiếu hợp tịnh
minh”. Điểm này tương đối không tốt, bởi vì quá thiện lương quá nhiệt tâm, hơn nữa tâm địa quang minh thẳng thắn, rất dễ gặp phải quỷ kế của tiểu nhân. Nhưng mà “Sửu cung hãm, Mùi cung đắc địa, Thái Âm đồng, gia cát tinh tài quan cách” chỉ cần có thể gia cát tinh phụ tá vẫn có thể lấy “tài quan cách” luận cát. Ngoại trừ cung Thiên Di có Tả Phụ, Hữu Bật hội nhập Mệnh cung phù trợ ra, không có trợ tinh cát tường khác, hơn nữa Mệnh cung còn có Hỏa Tinh, Địa Không ở cùng nhau nguy hại có thể làm cho cá tính của mệnh tạo dễ xung động, làm việc cũng thiếu đi sự suy nghĩ sâu xa. Với lại còn thường có những ý nghĩ lập dị, không giống người thường, hợp với một viên Thái Âm Kị chủ kiến bản thân cường liệt, đối với những lời khuyên từ người khác sẽ rất khó nghe lọt, mà viên tinh này chủ bất cát khốn đốn cho nên mệnh tạo này suốt đời rất dễ sầu muộn buồn phiền thua thiệt.
Bây giờ khán Thiên Lương Quyền tọa ở cung Quan Lộc, có nắm trong tay xí nghiệp hoặc trong lòng có ý khai mở gây dựng sự nghiệp. Ở công ty lớn dễ đảm nhiệm chủ quản, nếu không thì là chính mình mở công ty mình làm chủ, cho nên có hiện tượng sẽ nắm chưởng quyền làm ông chủ vì thế mà tuổi còn trẻ bản thân đã mở một cửa hàng thuốc tây, gây dựng sự nghiệp làm ông chủ. Bởi vậy, từ sự hình thành cách cục trong tam hợp của tổ hợp tinh tú đến xem, là một mệnh cục có khả năng kinh doanh buôn bán kiếm tiền, chỉ bất quá tổ hợp tinh diệu Mệnh cung cho thấy có sự khuyết thiếu khí thế quả cảm quyết đoán để có thể có nét uy nghiêm khi lãnh đạo công nhân viên. Hơn nữa cũng hơi bảo thủ cố chấp, không dễ tiếp nhận, cũng thiếu đi khoan hồng độ lượng, cho nên nếu kinh doanh một mình cùng với gia nhân thì rất thích hợp với loại hình kinh doanh nhỏ, có thể ứng phó được.
Mệnh tạo này Mệnh cung tam hợp hội nhập tam sát tinh Địa Không, Địa Kiếp, Hỏa Tinh, lục sát thì hội tam sát, thực sự rất nghiêm trọng. Đặc biệt là hai viên Không Kiếp lực phá hoại trọng điểm ở phương diện vật chất, nhất là ở vấn đề tiền bạc thì sự hao tổn của nó là không thể lường được. Không phải là mệnh tạo này không nghiêm túc dốc sức làm, hoặc tiêu xài tiền bậy bạ gây hao tổn, mà là bị bằng hữu mượn không trả, hoặc trong số bằng hữu đó có người nhờ đứng ra bảo lãnh để mượn hộ nhưng rồi người mượn đó không trả nổi đã lẩn trốn. Bởi vậy, Lộc Tồn ở cung Tài Bạch tuy có công năng “đại để tinh này, chư cung giáng phúc tiêu tai”, nhưng gặp phải Địa Kiếp liền đem tính chất “là ngôi sao thứ ba trong chòm Bắc đẩu, chủ về vinh hiển, chưởng quản tuổi thọ. Gặp Đế, Tướng thêm quyền, gặp Nhật Nguyệt thêm sáng” của Lộc Tồn phá hao tổn rớt, cho nên nói Lộc Tồn “tối hiềm lạc ở hãm không, không còn là phúc” – hãm không là gì? Mệnh bàn có động? Hãm chỉ Lộc Tồn tọa lạc ở cung vị lạc hãm, nhưng Lộc Tồn tinh “trong mười hai cung đều nhập miếu”, không có vấn đề lạc hãm, như vậy hãm không này nó ý chỉ điều gì? Nguyên lai không này chính là chỉ Địa Không, hàm ý chỉ nếu Địa Không hoặc Địa Kiếp hai viên này ở cùng một chỗ với Lộc Tồn đối với tiền tài sẽ bất lợi. Nó giống như đem của cải của mình vào động không đáy, trái lại càng nhiều càng tổn thất lớn, mệnh lệ này là một minh chứng rõ ràng.
Mà cung Tài Bạch can Kỷ: phi xuất Vũ Khúc hóa Lộc nhập Huynh Đệ, Tham Lang hóa Quyền nhập Phụ Mẫu, Thiên Lương hóa Khoa nhập Quan Lộc, Văn Khúc hóa Kị nhập Phụ Mẫu. Hóa Lộc với hóa Quyền đều bay vào tha cung, tức là điểm tốt của Tài Bạch của ta đều mang đến cho người khác. Nói cách khác, hàm ý chính là sẽ đem tiền của mình đi trợ giúp bằng hữu, thế nhưng cung Huynh Đệ tiếp nhận Vũ Khúc hóa Lộc rồi có cảm khái ân tình báo đáp hay không, hoặc là đem trả về cho chủ cũ không?
Sẽ khán cung Huynh Đệ can Nhâm xem tình hình hóa tinh phi xuất, phi Vũ Khúc hóa Kị lại tự hóa Kị
trạng thái, biểu thị chỗ tốt ở Huynh Đệ của mệnh tạo này mang đi nhưng không được hồi báo, thậm chí hóa tượng cho thấy tiền tài bị phá vì Huynh Đệ. Huynh đệ được xem như thủ túc, kỳ thực cũng có thể coi bằng hữu thân thiết như là huynh đệ, rõ ràng cho thấy cung Tài Bạch vì người khác mà phá tài. Hơn nữa lại thêm Văn Khúc hóa Kị rơi vào cung Phụ Mẫu, cũng là tha cung, căn cứ nguyên tắc “Lộc tùy Kị tẩu”, kết quả cuối cùng là “tiền tài vì tha nhân mà bị phá”.
Phân tích mệnh bàn thì cung vị nào trọng yếu nhất? Trong Đẩu Số cốt tủy phú nói: “Tại nhân thì mệnh có cách cục, trước rõ cách cục, sau xem cát hung. Muốn biết sự vinh nhục một kiếp, cần xem kỹ cung vị ngũ hành. Lập mệnh biết được sang hèn, an thân hiểu được căn cơ. Thứ nhất cần xem cung Phúc Đức, tiếp đến xét kỹ cung Thiên Di, chia thể dụng của cung đối, định cội nguồn của tam hợp”, “nếu xem nam mệnh thì lấy Phúc Tài làm trục chính, tiếp đến xem Thiên Di thế nào”, “nếu xem nữ mệnh, trước tiên quan sát hai cung Phu Tử” đều đã điểm ra nam mệnh muốn xem thì trọng điểm cung vị là Mệnh cung, Thiên Di, Tài Bạch cùng Quan Lộc, còn trọng điểm cung vị cho nữ mệnh là hai cung vị Phu Thê với Tử Nữ. Những cung vị này xưng là “ngã cung”, hàm ý những cung vị khác được gọi là “tha cung” – nó không liên quan đến ta, thực ra đây là quan niệm của cổ nhân, người hiện đại hoặc xưng hiện đại Tử Vi học giả noi theo quan điểm của cổ nhân. Bởi vì thời đại tiến bộ đến xã hội công thương nghiệp, nam nữ địa vị đã bình đẳng, hệ thống tư duy truyền thống cổ xưa phải biểu dương nhân tố tích cực loại bỏ nhân tố tiêu cực.
Mười hai cung trong mệnh bàn đều sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân mệnh tạo, nếu noi theo lối nghĩ của cổ nhân thì sẽ bỏ quên ảnh hưởng của tha cung đối với mệnh vận của ta, cho nên không nên đem mười hai cung phân chia thành ngã cung tha cung với lối nghĩ ngã cung có liên quan đến ta mà tha cung không liên quan đến ta, nhớ kỹ mười hai cung đều sẽ sản sinh ảnh hưởng đến mệnh vận của ta.
Mệnh tạo này cung Nô Bộc tọa Thất Sát, Thiên Hỉ “chủ ở số dễ làm tăng đạo, chủ ở thân phải qua gian khổ; tại Mệnh cung nếu hạn không có trợ giúp sẽ chết yểu, ở Quan Lộc đắc địa biến họa thành phúc, ở Tử Tức hiếm muộn đường con, ở Phu Thê gặp cảnh cô độc” Thất Sát ở trong Chư Tinh vấn đáp hoặc tiên hiền phú văn, đối với đặc tính ở phương diện “nhân sự” đều đã minh xác chỉ ra các đặc trưng như “lạnh lùng, cô đơn, bất lực, vô tình”. Đương nhiên lúc rơi vào cung Nô Bộc, bằng hữu kết giao với mệnh tạo đa số thuộc diện bạn nhậu ăn ăn uống uống hoặc là người lợi dụng mệnh tạo mà cố tình thân cận, đây là tính chất bằng hữu từ tinh diệu cung Nô Bộc tiên thiên điểm ra. Bằng hữu có những điểm tính chất này khi qua lại với mệnh tạo tất sẽ có nguy hại lớn hoặc xuất hiện sự phá tán đến mệnh vận của mệnh tạo. Thế nhưng có điểm khác biệt bởi can Mậu của cung Nô Bộc.

Phi xuất Thiên Cơ hóa Kị nhập cung Phúc Đức (tức xung đến cung Tài Bạch)

Nô Bộc hóa Kị xung Tài Bạch đại biểu bằng hữu sẽ gây tổn hại tới tiền bạc của ta, nếu như có tượng này, nhất định không nên có các hành vi dưới đây với bằng hữu:
¬ Giúp bằng hữu bảo đảm
¬ Thay bằng hữu xác nhận chứng nhận
¬ Vay tiền cho bằng hữu
để tránh cho tổn thất. Nếu tránh không được thì nên làm theo khả năng, tránh mạo hiểm, nên nằm trong phạm vi khả năng của mình thôi, không nên vì hết lòng đạo nghĩa với bằng hữu mà không phòng ngừa chính mình tán gia bại sản. Đương nhiên, còn có những hiện tượng thực tế khác không hay gặp nữa, nó cũng liên quan đến phương thức Kị xung như này. Như chúng ta hay gặp ông chủ trong xã hội phong kiến xưa đi xe ngựa bị cướp, gây án cũng nhiều trường hợp là người làm công đã nghỉ việc, cung Nô Bộc cung Tài Bạch của mệnh tạo này đều hiện lên tượng Hóa Kị giống nhau, rất rõ ràng sẽ bị bằng hữu thân thích phá hao tổn tài sản.
Khi vận hạn chuyển động, cung Mệnh đại hạn từ Mùi chuyển qua Ngọ, rồi từ cung Ngọ chuyển tới cung Tị, lúc này cung Mệnh đại hạn rơi vào cung Phu Thê gốc ở Tị, cung Quan Lộc đại hạn ở Phúc Đức (cung Dậu), cung Tài Bạch đại hạn ở Thiên Di (cung Sửu), cung Nô Bộc đại hạn ở Tuất vị, độc giả nhất định phải quen thuộc loại kỹ xảo động bàn chuyển hóa này mới có thể nắm được then chốt trong biến hóa của vận hạn.
Lúc này trạng thái tinh tọa tam phương đại hạn bàn cục có thể biểu hiện hoàn cảnh đặc trưng có thể gặp trong đại hạn này. Cung Mệnh đại hạn tọa “Thiên Đồng, Thiên Mã” lại đang ở Tị vị, có thuyết “Đồng Lương Tị Hợi vị, nam đa lãng đãng nữ đa dâm”, lãng đãng là ý chỉ không có chuyên tâm sự nghiệp, gặp gỡ phức tạp, hoặc ăn chơi lu bù. Mà cung Mệnh tiên thiên có Hỏa Tinh xung động, hành xử chộp giật không nghĩ ngợi, không có lo xa. Có thể tóm lược đại hạn Tị này có hiện tượng “phù động bất an, phúc ấm tha nhân, thiếu sự nghĩ sâu tính kỹ”. Người vốn có Thái Dương Thái Âm tọa Mệnh thường nghĩ cặn kẽ, một khi gặp phải sát tinh phá hư, mà đại hạn lại có Thiên Đồng tinh đơn thuần vô tri gia nhập tăng cường cho hiện tượng “phúc ấm, phục vụ, chiếu cố tha nhân”, vì thế mà khi gặp sát tinh xâm nhập tất sẽ bị thương tổn. Tiếp tục khán tổ hợp “Thiên Cơ Lộc, Cự Môn” ở Quan Lộc đại hạn, “Cự Cơ ở Dậu có hóa cát, quý mà không hiển, phú mà không bền” chẳng phải là nói tổ hợp này sao! Vận hạn sự nghiệp tất nhiên nghiệp vụ với thu hoạch cũng không tệ, nhưng có chút nguyên do, cho dù sự nghiệp thành công kiếm được không ít tiền nhưng cuối cùng tài phú này chẳng giữ được, bị phá hao rơi rớt, rủi ro này là vì đâu?
Có Thiên Cơ hóa Lộc là đầu sỏ gây nên. Thiên Cơ là thiện tinh thích đem tiền của mình giúp người khác hoặc quyên tiền cho chùa miếu, nên mới nói “chuyên cần lễ Phật, hiếu nghĩa với người thân, thích hợp với nghiệp tu hành chốn rừng sâu” chính là hiện tượng “coi nhẹ tiền bạc, trọng thị tinh thần”. Bởi vậy “là người cũng rất nhiệt tâm, cho nên bằng hữu yêu cầu người bảo đảm hoặc vay tiền hầu như ai tới đều không chối từ”, mà Cự Môn còn là “chủ ám vị, thị phi, lừa gạt đất trời, tiến thoái lưỡng nan”. Nói giản đơn một chút hàm ý chính là “ám muội, dối gạt”, cho nên loại vận hạn này sẽ gặp phải tình huống “ám muội, dối gạt” dẫn đến phá hao tổn.
Cung Thiên Di đại hạn cũng là cung vị trọng yếu, độc tọa Thiên Lương Quyền, tất nhiên sự nghiệp kinh doanh trước đó không tệ, ở quê nhà cũng có chút danh vọng, được nhiều người biết đến. Tất nhiên người có danh vọng trong xã hội thì không thể vắng mặt trong các đám cưới, đám tang và những dịp lễ lạt, nếu không thì anh ta sẽ bị bạn bè coi thường và bị bạn bè lên án chỉ trích, nhìn như cát tường mà tiềm ẩn tai họa. Mọi vinh quang cũng khiến anh ta trở thành mục tiêu để nhờ cậy của mọi người, bởi vì Thiên Lương chính là “ấm tinh”, muốn tới che chở cho người khác. Bởi vậy người ta nhờ làm người bảo lãnh, đến vay tiền quay vòng ùn ùn kéo đến, lại bị nói khéo không thể cự tuyệt, có cầu tất ứng, mà trong số những người đến nhờ cậy đó khó tránh khỏi có người có lòng dạ khác thừa dịp thừa lúc.
Bởi vậy trong sinh hoạt thực tế cũng là “trong số bằng hữu khó tránh khỏi có người có chút tín dụng
bất hảo hoặc rắp tâm bất lương, vay tiền không trả, vì thế mà bị liên lụy”, vẻ ngoài như không sao nhưng lại hại người rất nặng. Mà hành vi mô thức đặc trưng của cung Quan Lộc đại hạn khi biểu hiện ra ngoài, chính là then chốt phá tài hắn, cho nên tượng phá tài tuy là có liên quan tài vụ nhưng không thể chỉ nhìn mỗi cung Tài Bạch mà được.
Mà cung Tài Bạch đại hạn chính là cung Thiên Di tiên thiên, nội tọa “Tả Phụ, Hữu Bật”, nhìn như phụ
tinh cát tường, nhưng tinh này nó lại là “bang trợ người khác”, tượng đã có sẽ đem tiền đi trợ giúp người khác. Can cung là Kỷ phi hóa Văn Khúc Kị nhập cung Phụ Mẫu, cấu thành:
Tài Bạch cùng đại hạn Tài Bạch
Hóa Kị tụ tập ở Phụ Mẫu.
Bàn cục xuất hiện song Kị tụ tập, kiếp nạn này khó thoát, đã biểu hiện rất rõ ràng tượng của “tiền tài đều sẽ rơi vào trong tay người khác”. Từ tổ hợp tinh diệu cung Tài Bạch tiên hậu thiên nhìn ra tương ứng tổn hao ở bằng hữu bên mình.
Thuộc tính cung Nô Bộc lại như trước có nói, người ta nhận được giúp đỡ nhưng khi mình khó khăn thì người từng giúp họ lại khoanh tay đứng nhìn, đây là tượng của Thất Sát tại Nô Bộc. Thất Sát thuộc Kim, là quả tú lãnh khốc vô tình, nếu cấu thành cách cục “Vũ Khúc Thất Sát Hỏa Tinh đồng cung, nhân tài bị kiếp”, là tượng vì tiền tài mà cầm đao, muốn đòi tiền về. Mệnh tạo này mặc dù không có sát tinh, nhưng cũng có thể hình dung biết được sự oán trách trong ngữ khí của hắn với những người từng nhờ cậy mà giờ lạnh nhạt thờ ơ hắn, bởi thế các vị độc giả liền có thể khắc sâu lãnh hội tinh tính của Thất Sát.
Đồng cung còn có Thiên Khôi tinh, cũng có thuyết “hạn gặp Khôi Việt tiền nong danh giá đều tốt đẹp”, còn gọi đó là “Thiên Ất quý nhân tinh”, nhưng nó chỉ là viên trợ tinh, phàm chuyện đều phải nghe ý kiến chính tinh đồng cung, mà chính tinh đồng cung với nó cũng bang trợ cho hung thì chẳng phải đó là “quý nhân cho người khác” mà mình thì tổn hao đó hay sao, vì đâu? Bởi vì mệnh cục tổn tài khi Tài Bạch Kị xung cùng loại, mà Thiên Khôi quý nhân tinh tính thích giúp người (đương quý nhân), dẫn khởi thêm họa. Do đó gặp phải trợ tinh thì phải chú ý hiện tượng “cát càng thêm cát, hung càng thêm hung”.
Vậy còn “Lưu niên ứng nghiệm” thì sao? Chính là năm Dần khi có Văn Khúc hóa Kị tinh xung hội đến.
“Năm 30 tuổi cuối cùng quay vòng bất lợi, phải tuyên bố đóng cửa”, Văn Khúc hóa Kị chính là công văn quan phi, đây chính là biểu tượng của giấy niêm phong của cơ quan chức năng. Tuy rằng thoạt nhìn “Văn Khúc” nhu nhược vô lực, nhưng một khi nó hóa Kị thì thương tổn nó gây nên cũng nghiêm trọng chẳng kém gì sát tinh. Đối với mệnh tạo này mà nói, Quan Lộc với Mệnh cung thậm chí cung Thiên Di đều thuộc kết cấu trưng tượng coi như cát lợi, khiến cho mệnh tạo có một loại tâm thái “chí đắc ý mãn”, mà thiếu đi sự phòng ngừa cẩn trọng, dẫn đến tổn thất lớn lao. Bởi vậy cung Quan Lộc tốt cung Tài Bạch cũng phải cường mới có thể có sự khởi sắc trong sự nghiệp tài phú, nếu cung Quan Lộc tốt mà cung Tài Bạch bị phá, chỉ cần bớt can thiệp vào chuyện liên quan đến tiền bạc hoặc giao cho người phối ngẫu cất giữ, chối từ những lời nhờ cậy vay mượn thì có thể giảm bớt tổn thất.
(Trích sách Mệnh Vận Phân Tích – Thực Lệ Thiên của tác giả Từ Tăng Sinh. Sách có tại khosachquy.com)

Trả lời